Chuyển đổi kỹ thuật số trong giáo dục là một thay đổi về phương pháp giảng dạy và cải thiện các thiết bị, dụng cụ hỗ trợ để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của học sinh, sinh viên, giảng viên và khuôn viên của trường học.Điều đó giúp tạo ra một môi trường học tập nơi mọi thứ kết nối với nhau. Sự kết hợp mới mẻ của công nghệ, dịch vụ và bảo mật nhằm thu hẹp khoảng cách địa lý để tạo ra trải nghiệm trong học tập và tăng sự tương tác của mọi người.
Cuộc thi nhằm khuyến khích phong trào thiết kế, sáng tạo, làm thiết bị dạy học trong giáo viên và tổ chức, cá nhân để bổ sung thiết bị dạy học tại các cơ sở giáo dục, đặc biệt là những nơi chưa có điều kiện mua sắm đầy đủ trang thiết bị dạy học, góp phần hỗ trợ các cơ sở giáo dục chuẩn bị thiết bị dạy học tối thiểu theo quy định. Các sản phẩm của cuộc thi sẽ được tuyển chọn để chia sẻ miễn phí đến cộng đồng, qua đó hỗ trợ cơ sở giáo dục, giáo viên, học sinh lựa chọn những thiết bị dạy học số có chất lượng sử dụng trong hoạt động dạy và học, góp phần quan trọng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tăng cường ứng dụng công nghệ tin, phù hợp với các phương thức dạy học trong bối cảnh hiện nay.
Cuộc thi được tổ chức trên toàn quốc. Đối tượng dự thi là các cá nhân hoặc nhóm cá nhân đang cư trú tại Việt Nam đều có thể nộp sản phẩm tham dự cuộc thi; các cá nhân chưa đủ 18 tuổi khi tham dự cuộc thi phải được sự đồng ý của người giám hộ.
Tư liệu dạy học gồm bộ tranh ảnh, video clip; phần mềm mô phỏng, thí nghiệm ảo; thiết bị thí nghiệm thực hành được kết nối và có thể tương tác được trên máy tính… Sản phẩm dự thi phải đảm bảo tính khoa học, thẩm mỹ và sư phạm, phù hợp với các hướng dẫn của Bộ GD-ĐT; sản phẩm có thể thay thế các thiết bị dạy học truyền thống hoặc những thiết bị thí nghiệm, dụng cụ thí nghiệm không thể sử dụng được trong lớp học; sản phẩm dự thi không vi phạm các quy định của Luật sở hữu trí tuệ và các quy định pháp luật liên quan.
Chương trình phát triển năng lực: Chương trình môn Công nghệ có đầy đủ đặc điểm của chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh. Đây là thay đổi bao trùm, có tính chất chi phối tổng thể tới mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, kiểm tra đánh giá của môn học. Chương trình môn học hướng tới hình thành, phát triển năng lực công nghệ; góp phần hình thành, phát triển các phẩm chất chủ yếu, năng lực chung được xác định trong Chương trình tổng thể.
Thúc đẩy giáo dục STEM: Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, môn Công nghệ phản ánh hai thành phần là T (technology) và E (engineering) trong bốn thành phần của STEM. Đây là cơ sở để xác định môn Công nghệ có vai trò quan trọng thể hiện tư tưởng giáo dục STEM trong chương trình giáo dục phổ thông 2018. Chương trình môn Công nghệ gắn với thực tiễn, hướng tới thực hiện mục tiêu “học công nghệ để học tập, làm việc hiệu quả trong môi trường công nghệ tại gia đình, nhà trường, cộng đồng”; thúc đẩy đổi mới sáng tạo thông qua việc bố trí nội dung thiết kế kỹ thuật ở cả tiểu học, trung học; định hướng GD STEM – lĩnh vực rất được quan tâm trong Chương trình GDPT mới.
Tích hợp giáo dục hướng nghiệp: Chương trình môn Công nghệ thể hiện rõ ràng, đầy đủ vai trò giáo dục hướng nghiệp trong dạy học công nghệ. Sự đa dạng về lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ trong nội dung môn Công nghệ cũng mang lại ưu thế của môn học trong việc lồng ghép, tích hợp nội dung GD hướng nghiệp trong môn học thông qua các chủ đề về lựa chọn nghề nghiệp; các nội dung giới thiệu về ngành nghề chủ yếu thuộc các lĩnh vực sản xuất môn Công nghệ đề cập; các hoạt động trải nghiệm nghề nghiệp qua các mô-đun kỹ thuật, công nghệ tự chọn. Nội dung GD hướng nghiệp được đề cập ở các lớp cuối của giai đoạn GD cơ bản và toàn bộ giai đoạn GD định hướng nghề nghiệp.
Thứ nhất, việc xác định mục tiêu bài học giúp học sinh biết mình thực sự cần gì, học để làm gì,… từ đó cung cấp các bài học trực tuyến thực sự hiệu quả và hấp dẫn.
Thứ hai, chuẩn bị tốt cho hội nghị khi giảng dạy trực tuyến; tham khảo các tài liệu, tư liệu để học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp. Luôn tạo ra cái mới, khơi dậy trí tò mò của học sinh thông qua video, hình ảnh, tài liệu ... Giáo viên phải chăm chú vào kiến thức trọng tâm, không được phổ biến, rời rạc, tham lam nhiều nội dung mà không chú trọng đến chất lượng.
Thứ ba, khi soạn giáo án, giáo viên nên phân chia nội dung học hợp lý để khi giáo án hiển thị trên màn hình, từ ngữ dễ hiểu, dễ nhớ.
Thứ tư, trong giáo án dạy học trực tuyến, giáo viên nên sử dụng các câu hỏi giải nhanh, hỏi đáp để học sinh tập trung giải quyết vấn đề một cách tích cực, tránh bị phân tâm trong giờ học. Thứ sáu, giáo viên giao bài tập cho học sinh, giúp các em củng cố kiến thức, biết vận dụng lý thuyết vào giải bài tập.
Thứ năm, kết thúc bài học cô đọng và vận dụng như: nhớ lại kiến thức trọng tâm, củng cố kiến thức đã học, làm bài tập. Phần cuối của bài học đặc biệt quan trọng đối với các khóa học trực tuyến vì nó giúp học sinh củng cố những gì đã học và mở rộng nội dung chính mà mục tiêu bài học đã xác định.
Kết hợp với các trang hỗ trợ trực tuyến; ví dụ: padlet (dùng để chia sẻ, thảo luận nhóm), kick class (dùng để làm việc cá nhân), ...
Giáo viên cũng cần phân biệt rõ ràng giữa các hoạt động học sinh cần làm ở nhà, các sản phẩm cần có và các hoạt động trên lớp để học sinh sẵn sàng cho các bài học trực tuyến.
Giáo viên có thể chia thành các nhóm cố định trong giờ học trực tuyến để học viên quen với việc trò chuyện, giúp tăng tính tương tác trong giờ học.
Hoạt động cá nhân: Nên tăng cường hoạt động các học sinh đều được tham gia như: trò chơi (quizzes), đưa đáp án lên ô chat (câu trả lời ngắn), đưa lên pablet (câu trả lời dài), thả tim/like vào đáp án đúng hoặc khảo sát ý kiến nhanh (câu trắc nghiệm)…
Hoạt động theo cặp: Cho học sinh tương tác theo cặp bằng cách nói chuyện.
Hoạt động nhóm lớn: Sử dụng các nhóm ngẫu nhiên / bài tập dự án mà học sinh có thể làm ở nhà…