Bài giảng trực tuyến khác hoàn toàn với các khái niệm giáo án điện tử, bài trình chiếu hoặc bài giảng điện tử (powerpoint). Nếu soạn bài giảng bằng PowerPoint thì người giảng phải trực tiếp sử dụng nó, còn bài giảng trực tuyến là một bài giảng hoàn toàn phụ thuộc vào hoạt động học tập của người học với sự hỗ trợ không trực tiếp của giáo viên/người hướng dẫn.
Đây là yêu cầu cơ bản đối với giáo viên tiểu học khi sử dụng tài liệu. Mô hình giáo viên là rất quan trọng và cần thiết khi kết hợp các chuyển động với sự trợ giúp của việc nói, viết, vẽ và tài liệu giảng dạy. Đây được coi là hình ảnh trực quan mẫu mực mà các em học sinh nên noi theo
Ví dụ: Khi sử dụng đồ dùng trực quan phải luôn kết hợp với các phương pháp dạy học như: hướng dẫn, gợi ý, nêu câu hỏi ... do đó cần cung cấp chi tiết, sơ đồ. Việc sử dụng hình ảnh cần được kết hợp nhịp nhàng và dứt khoát với lời nói của giáo viên.
Tránh đưa ra một cách lỏng lẻo mà thường không giúp ích cho sự hiểu biết của học sinh. Để sử dụng tài liệu, giáo viên cần thực hiện chính xác, rõ ràng, đúng trình tự, cũng như tổ chức hướng dẫn giáo viên và học sinh sử dụng tài liệu, học sinh làm tài liệu toán nhà trường cần giúp đỡ. Từ đó, học sinh tìm tòi, khám phá những kiến thức mới về lớp học.
Ngoài ra, việc sử dụng tài liệu học toán lớp 1, lớp 2, lớp 3 cần được thực hiện đúng lúc, đúng chỗ và đúng cách. Sau khi sử dụng đồ dùng trực quan để hình thành kiến thức mới, khi luyện tập, thực hành những kiến thức đó cần hạn chế dần hoặc cấm sử dụng và chỉ nên sử dụng để hỗ trợ khi cần thiết ..
. Ví dụ, khi tạo một "bảng cửu chương" lớp 2, giáo viên nên sử dụng thẻ có in 4 hình tròn trên đó để học sinh có thể tự hiểu bảng cửu chương và kết quả ... Tuy nhiên, điều này không cần thiết như một trợ giúp trực quan. Tìm tất cả các công thức trong 4 bảng cửu chương. Sau một loạt ứng dụng, bạn có thể nhận xét học sinh của mình và tự mình tìm ra công thức sau đây. Khi chuyển sang phần luyện tập và bài tập, không nên dùng giáo cụ trực quan mà yêu cầu học sinh nhớ bảng cửu chương và ghi kết quả ngay. chỉ khi nào quên công thức mới gợi ý để hỗ trợ cho trí nhớ.
Các trường học có quy mô lớn, nhiều lớp, nhiều môn học thì số lượng thiết bị hỗ trợ học tập càng phong phú và đa dạng. Mỗi loại thiết bị sẽ có những đặc điểm và mục đích sử dụng khác nhau. Việc quản lý tốt số lượng trang thiết bị học tập sẽ giúp nhà quản lý chủ động bổ sung khi thiếu sót & chuẩn bị tốt cho công tác giảng dạy.
Khi sử dụng sổ hoặc excel quản lý hệ thống trang thiết bị, những thông tin về thiết bị như số lượng thường phải thay đổi theo tình trạng thực tế. Khi đó việc sửa chữa và cập nhật lại sẽ khá khó khăn. Với sổ thì phải lập bảng mới, với excel thì phải cập nhật số mới trên hệ thống. Nếu quên cập nhật hoặc cập nhật sai sẽ ảnh hưởng lớn tới quá trình sử dụng sau này.
Phần mềm có thể quản lý được về số lượng sản phẩm theo từng danh mục, số lượng được cập nhật tăng giảm theo thời gian thực. Mọi con số sản phẩm hiển thị ngay trên hệ thống mà không cần phải kẻ bảng, viết tay. Tính chính xác khi quản lý cũng được đảm bảo tốt
Trong quá trình sử dụng, các thiết bị phục vụ học tập sẽ bị bào mòn theo năm tháng. Những thiết bị điện tử là các vật dụng dễ bị hư hỏng hơn cả.
Có những thiết bị để trong thời gian dài không được sử dụng, khi động đến có nhiều khả năng bị hư hỏng. Trường hợp người học muốn mượn thiết bị mà thiết bị hư hỏng sẽ trễ nải việc học tập. Đây là tình trạng rất thường xảy ra.
Chức năng quản lý tình trạng thiết bị sẽ giúp người quản lý cập nhật được những sản phẩm nào mới, thời gian chính xác sử dụng, năm sản xuất, đã bao lâu chưa sử dụng. Thậm chí, các đặc điểm sản phẩm, chỗ nào hư hại, đã thay hay sửa bộ phận nào,… đều có thể thống kê và được cập nhật toàn bộ trên hệ thống.
Thông qua đó, người quản lý có thể biết được tình trạng từng thiết bị, thường xuyên kiểm tra các thiết bị lâu chưa dùng để đảm bảo chất lượng sử dụng. Đồng thời, người quản lý cũng có thể kịp thời thay thế, đổi mới những thiết bị cũ hỏng
Giáo án (kế hoạch bài học) được điều chỉnh cụ thể hơn so với truyền thống. Có thể có nhiều cấu trúc để thiết kế một kế hoạch dạy học (giáo án). Sau đây là một cấu trúc giáo án có các hoạt động và mục tiêu cụ thể….
- Mục tiêu bài học:
+ Nêu rõ yêu cầu HS cần đạt về KT, KN, thái độ;
+ Các mục tiêu được biểu đạt bằng động từ cụ thể, có thể lượng hoá được.
- Chuẩn bị về phương pháp và phương tiện dạy học:
+ GV chuẩn bị các thiết bị dạy học (tranh ảnh, mô hình, hiện vật, hoá chất...), các phương tiện dạy học (máy chiếu, TV, đầu video, máy tính, máy projector...) và tài liệu dạy học cần thiết;
+ Hướng dẫn HS chuẩn bị bài học (soạn bài, làm bài tập, chuẩn bị tài liệu và đồ dùng học tập cần thiết).
- Tổ chức các hoạt động dạy học: Trình bày rõ cách thức triển khai các hoạt động dạy- học cụ thể. Với mỗi hoạt động cần chỉ rõ:
+ Tên hoạt động ;
+ Mục tiêu của hoạt động;
+ Cách tiến hành hoạt động;
+ Thời lượng để thực hiện hoạt động;
+ Kết luận của GV về: những KT, KN, thái độ HS cần có sau hoạt động; những tình huống thực tiễn có thể vận dụng KT, KN, thái độ đã học để giải quyết; những sai sót thường gặp; những hậu quả có thể xảy ra nếu không có cách giải quyết phù hợp;...
- Hướng dẫn các hoạt động tiếp nối: xác định những việc HS cần phải tiếp tục thực hiện sau giờ học để củng cố, khắc sâu, mở rộng bài cũ, hoạt động ứng dụng kết quả bài học vào cuộc sống (ở lớp, nhà, cộng đồng; có thể cùng bạn, gia đình, làng xóm, khối phố) hoặc để chuẩn bị cho việc học bài mới.